24/4/13

Ella Fitzgerald là ai? | Google Doodles

Hôm nay, Cây Bốn Lá chia sẻ cho mọi người tiểu sử sự nghiệp của ca sĩ Ella Jane Fitzgerald rất chi tiết ở bên dưới nhé!

Ella Fitzgerald (sinh ngày 25 tháng 4, 1917 mất 15 tháng 6, 1996) là nữ ca sĩ nhạc Jazz người Mỹ. Trong sự nghiệp ca hát kéo dài 59 năm, bà đã giành 13 giải Grammy, được tổng thống Ronald Reagan trao tặng Huân chương Nghệ thuật Quốc gia và tổng thống George H. W. Bush trao tặng Huân chương Tự do của Tổng thống.


Bản nhạc của Ella Fitzerald


Sự nghiệp

Ngày 21 tháng 11 năm 1934, bà bắt đầu bước vào nghiệp ca hát ở nhà hát Apollo ở Harlem, New York. Sau đó, bà giành cơ hội thử sức trong cuộc thi “Amateur Nights” mà nhà hát này tổ chức. Bà định dự thi bằng một tiết mục khiêu vũ nhưng bị chị em Edwards, một đôi vũ công địa phương, đe doạ nên đã chuyển sang hát. Bà đã đoạt giải nhất với phần thưởng 25 đô-la.

Tháng 1 năm 1935, Ella Fitzgerald có cơ may biểu diễn một tuần với ban nhạc Tiny Bradshaw ở nhà hát Opera Harlem. Tại đây, bà gặp tay trống thủ lĩnh ban nhạc Chick Webb. Webb đã thuê Charlie Linton làm ca sĩ trong ban và không muốn nhận Ella vì bà “chậm chạp và lôi thôi, một viên kim cương thô”. Webb cho bà một cơ hội để thử nghiệm với ban nhạc của ông khi họ chơi cho một buổi khiêu vũ ở đại học Yale.




Đến năm 1935, bà bắt đầu hát thường xuyên cùng ban nhạc của Webb ở Harlem’s Savoy Ballroom. Cùng với họ, bà đã thu âm nhiều bài hát được yêu thích như “Love and Kisses” and “(If You Can’t Sing It) You’ll Have to Swing It (Mr. Paganini)”. Nhưng phải đến năm 1938, nhờ một bài hát trẻ trung tên là “A-Tisket, A-Tasket” do bà đồng sáng tác, bà mới được đông đảo công chúng biết tới. Chick Webb qua đời ngày 16 tháng 6 năm 1939, và ban nhạc của ông đổi tên thành “Ella Fitzgerald and her Famous Orchestra” do Ella làm thủ lĩnh. Năm 1942, bà tách khỏi ban nhạc để bắt đầu sự nghiệp biểu diễn độc lập. Ký hợp đồng với hãng Decca, bà đã có rất nhiều bài được yêu thích rộng rãi khi thu âm chung với những nghệ sĩ tiếng tăm như the Ink Spots, Louis Jordan, the Delta Rhythm Boys.

Nhờ có người quản lý là Milt Gabler của Decca, Ella bắt đầu cộng tác với ông bầu nhạc Jazz Norman Granzas, thường xuyên xuất hiện trong những buổi hoà nhạc mang tên Jazz at the Philharmonic (JATP) của ông. Quan hệ của bà với Granz còn được củng cố hơn nữa khi ông trở thành người quản lý của bà. Bản ghi âm năm 1945 mang tên “Flying Home” sau này được báo New York Times miêu tả như “một trong những bản ghi âm jazz-thanh nhạc có ảnh hưởng nhất của thập kỷ”. Bài bebop “Oh, Lady be Good!” (1947) cũng nổi tiếng tương tự và nâng bà lên vị trí những ca sĩ jazz hàng đầu.




Ella tiếp tục biểu diễn trong những buổi hoà nhạc JATP của Granz cho đến năm 1955. Bà rời bỏ Granz và hãng Decca, thành lập hãng thu âm Verve Records. Sau này, bà nói về thời kỳ này như một bước ngoặt mang tính chiến lược. Album “Ella Fitzgerald Sings the Cole Porter Songbook”, phát hành năm 1956, là album đầu tiên trong số 8 album thuộc loạt Songbook mà Ella sẽ thu âm cho Verve từ năm 1956 đến 1964. Loạt album Songbook này được các nhà phê bình đánh giá cao và rất thành công về mặt thương mại. Đây cũng chính là đóng góp nổi bật nhất của bà cho văn hoá Mỹ.

Verve Records đã được bán cho hãng MGM vào năm 1963 với giá 3 triệu USD. Năm 1967, MGM thất bại trong việc gia hạn hợp đồng với Ella. Trong 5 năm tiếp theo, bà chuyển qua chuyển lại trong phạm vi 3 hãng thu âm là Atlantic, Capitol và Reprise. Với Capitol, bà ghi âm album thánh ca “Brighten the Corner”, “Ella Fitzgerald’s Christmas”- album gồm những bài hát mừng Giáng sinh truyền thống, “Misty Blue”- album nhạc đồng quê mang âm hưởng miền Tây, và “30 by Ella”.

Năm 1972, thành công bất ngờ của album “Jazz at Santa Monica Civic ’72″ giúp Granz thành lập hãng thu âm Pablo Records, hãng thu âm riêng đầu tiên của ông kể từ khi bán Verve. Ella thực hiện khoảng 20 album cho hãng này. Album thu âm trực tiếp “Ella in London” năm 1974 với Tommy Flanagan (piano), Joe Pass (guitar), Keter Betts (bass) và Bobby Durham (trống) là một trong những album hay nhất của bà. Gặp nhiều vấn đề về sức khoẻ, Ella Fitzgerald thực hiện những bản thu cuối cùng vào năm 1991. Đến năm 1993, bà biểu diễn trước công chúng lần cuối. Cùng năm đó, bà thành lập quỹ từ thiện mang tên mình để quyên góp sách giúp đỡ những trẻ em có nguy cơ cao và hỗ trợ những người gặp hoàn cảnh khó khăn.

Đời sống riêng tư

Ella Fitzgerald kết hôn ít nhất 2 lần và có bằng chứng cho thấy bà có thể đã kết hôn lần thứ ba.

Năm 1941, bà cưới Benny Kornegay, một công nhân bốc xếp và là tay buôn ma tuý đã có tiền án. Cuộc hôn nhân chấm dứt sau 2 năm.

Bà kết hôn lần thứ hai tháng 12 năm 1947, với tay chơi bass nổi tiếng Ray Brown, người mà một năm trước bà đã gặp khi đi lưu diễn với ban nhạc Dizzy Gillespie. Họ cùng nhau nhận nuôi con của Frances, người em gái cùng cha khác mẹ của Ella. Đứa trẻ được đặt tên là Ray Brown Jr. Hai người ly hôn năm 1953, vì lý do áp lực công việc. Dù vậy, họ vẫn tiếp tục biểu diễn cùng nhau.

Tháng 7 năm 1957, Reuters đưa tin Ella Jane Fitzgeral đã bí mật kết hôn với một người Na Uy trẻ tuổi tên là Thor Einar Larsen ở Oslo. Bà thậm chí đã tính chuyện tương lai khi sắm sửa nội thất cho một căn hộ ở Oslo. Nhưng mối quan hệ này nhanh chóng bị quên lãng khi Larsen bị tuyên phạt 5 tháng lao động khổ sai ở Thụy Điển vì trộm tiền của một phụ nữ trẻ, người mà anh ta đã đính hôn.

Những thành tựu của ca sĩ Ella Jane Fitzgeral

Ella Fitzgerald đã đoạt 14 giải Grammy, bao gồm giải cho giọng ca Jazz hay nhất, giọng ca Pop hay nhất, trình diễn xuất sắc nhất, album xuất sắc nhất và giải thành tựu trọn đời. Bà còn được trao tặng nhiều danh hiệu và giải thưởng cao quý khác như:


  1.     Chủ tịch danh dự của Martin Luther King Foundation (1967)
  2.     Giải thưởng Thành tựu trọn đời Bing Crosby (1967)
  3.     Huy chương danh dự của Trung tâm Kennedy (1979)
  4.     Giải thưởng Lord & Taylor Rose vì những đóng góp xuất sắc cho âm nhạc (1980)
  5.     Huân chương Nghệ thuật Quốc gia (1987)
  6.     Huân chương Văn học Nghệ thuật Pháp (1990)
  7.     Huân chương Tự do của Tổng thống
  8.     Tiến sĩ danh dự của các trường đại học Harvard, Yale, Dartmouth, Maryland Eastern Shore, Howard và Princeton


Những năm cuối đời, Ella bị mù do hậu quả của bệnh tiểu đường. Năm 1993, bà phải cắt cụt cả hai chân. Năm 1996, bà mất vì bệnh tại Beverly Hills, California, hưởng thọ 79 tuổi. Bà được an táng tại nghĩa trang Inglewood Park ở Inglewood, California. Tư liệu về sự nghiệp cũng thành tựu của bà được cất giữ tại Trung tâm Lưu trữ của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Hoa Kỳ thuộc Viện Smithsonian. Một số tư liệu cá nhân khác được lưu trữ tại các thư viện lớn như Thư viện Quốc hội, Thư viện Schlesinger của Đại học Harvard, Thư viện Schoenberg của đại học California.


www.caybonla.com | (BKTT)

21/4/13

Earth Day 2013 (ngày trái đất) là ngày gì?

Hôm nay, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu ngày trái đất (Earth Day 2013) được google gợi ý trên trang chủ rất sinh động! 

Ngày Trái Đất là ngày để nâng cao nhận thức và giá trị của môi trường tự nhiên của Trái Đất. Ngày Trái Đất được tài trợ bỏi thượng nghị sĩ Hoa Kỳ Gaylord Nelson như một cuộc hội thảo về môi trường được tổ chức lần đầu tiên vào 22 tháng 4 năm 1970.

Trong khi Earth Day đầu tiên tập trung vào nước Mỹ, một tổ chức đã được thành lập bởi Denis Hayes, nguyên là điều phối viên toàn quốc năm 1970, đưa nó lên tầm quốc tế vào năm 1990 và tổ chức các sự kiện ở 141 quốc gia.


Earth Day 2013 (ngày trái đất)


Earth Day giờ đây được điều phối toàn cầu bởi Mạng Ngày Trái Đất và được tổ chức hàng năm tại hơn 175 nước. Nhiều cộng đồng còn tổ chức Tuần Trái Đất, một tuần của các hoạt động xoay quanh các vấn đề môi trường. Năm 2009, Liên hợp quốc chọn ngày 22 tháng 4 là ngày Quốc tế Mẹ Trái Đất.


Ngày Trái Đất đầu tiên


Để đối phó với tình trạng môi trường xuống cấp trên diện rộng [cần dẫn nguồn], Gaylord Nelson, một thượng nghị sĩ Hoa Kỳ đến từ Wisconsin đã kêu gọi tổ chức một cuộc hội thảo về môi trường, hay Ngày Trái Đất vào ngày 22 tháng 4 năm 1970. Trên 20 triệu người đã tham gia năm đó và Ngày Trái Đất hiện nay được thấy vào ngày 22 tháng 4 hàng năm với trên 500 triệu người và một số chính phủ ở 175 quốc gia.




Thượng nghị sĩ Nelson, một nhà hoạt động môi trường, giữ vai trò lãnh đạo việc tổ chức sự kiện, muốn thể hiện sự hỗ trợ chính trị cho một chương trình nghị sự về môi trường. Ông đã lấy những buổi hội thảo rất hiệu quả về Chiến tranh Việt Nam thời đó làm mẫu.

Ngày Trái Đất được đề xuất đầu tiên trong một báo cáo gửi JFK bởi Fred Dutton.Tuy nghiên, Nelson quyết định đi ngược lại các tiếp cận trên-xuống của Dutton, ủng hộ một nỗ lực phi tập trung, quần chúng trong đó mỗi cộng đồng hình thành hành động của họ quang những vấn đề địa phương.

Nelson đã truyền bá ý tưởng về Ngày Trái Đất trong chuyến đi của ông đến Santa Barbara ngay sau sự cố tràn dầu khủng khiếp ngoài khơi năm 1969. Tức giận trước sự tàn phá và sự chậm chạp của chính quyền Washington, Nelson đề xuất một buổi hội thảo quốc gia về môi trường được quan sát bởi mọi trường đại học trên toàn nước Mỹ.

"I am convinced that all we need to do to bring an overwhelming insistence of the new generation that we stem the tide of environmental disaster is to present the facts clearly and dramatically. To marshal such an effort, I am proposing a national teach-in on the crisis of the environment to be held next spring on every university campus across the Nation. The crisis is so imminent, in my opinion, that every university should set aside 1 day in the school year-the same day across the Nation-for the teach-in".


Có nghĩa là: "Tôi tin rằng tất cả chúng ta cần phải hành động ngay để mang lại một sự sức mạnh thay đổi của thế hệ mới mà chúng tôi ngăn chặn xu hướng của thảm họa môi trường để trình bày sự thật rõ ràng và đáng kể. Để sắp xếp một nỗ lực như vậy, tôi đề xuất một quốc gia giảng dạy về cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về môi trường được tổ chức vào mùa xuân tới trên tất cả các khuôn viên trường đại học trên khắp các quốc gia. Cuộc khủng hoảng sắp xảy ra như vậy, theo ý kiến ​​của tôi, rằng tất cả các trường đại học nên dành 1 ngày trong các trường năm trong cùng một ngày trên toàn quốc để giảng dạy về điều này."

Một trong những người tổ chức còn nói:

"We're going to be focusing an enormous amount of public interest on a whole, wide range of environmental events, hopefully in such a manner that it's going to be drawing the interrelationships between them and, getting people to look at the whole thing as one consistent kind of picture, a picture of a society that's rapidly going in the wrong direction that has to be stopped and turned around."

Có nghĩa là: "Chúng ta sẽ tập trung một số lượng lớn của lợi ích công cộng trên một phạm vi rộng, các sự kiện môi trường, hy vọng trong một rằng cách thức nó sẽ được liệt kê và vẽ các mối tương quan giữa họ để mọi người nhìn nhận được vào toàn bộ điều trên bằng những hình ảnh phù hợp, một hình ảnh của một xã hội đang nhanh chóng đi theo hướng sai lầm và cần phải được dừng lại và quay lại ngay."

"It's going to be an enormous affair, I think. We have groups operating now in about 12,000 high schools, 2,000 colleges and universities and a couple of thousand other community groups. It's safe to say I think that the number of people who will be participating in one way or another is going to be ranging in the millions."

Có nghĩa là: "Tôi nghĩ nó sẽ là một chuyện rất lớn. Chúng tôi có các nhóm hoạt động tại trong khoảng 12.000 trường trung học, 2.000 trường cao đẳng và các trường đại học và một vài nghìn các nhóm cộng đồng khác. Đó là điều để nói rằng số lượng những người sẽ được tham gia một cách này hay cách khác sẽ khác nhau, trong hàng triệu người rồi dần tăng lên."

Ngày 29 tháng 9 năm 1969, trong một bài viết dài ở trang đầu báo New York Times, Gladwin Hill viết:
"Mối lo ngại ngày càng tăng về "khủng hoảng môi trường" tràn qua các trường đại học trong cả nước với sức mạnh có thể làm lu mờ sự bất mãn của sinh viên với Chiến tranh Việt Nam... ngày vì các vấn đề môi trường, tương tự như những cuộc biểu tình rộng lớn về vấn đề Việt Nam đang được lên kế hoạch vào mùa xuân năm sau, khi một buổi hội thảo môi trường toàn quốc... điều phối từ văn phòng của thương nghị sĩ Gaylord Nelson đang được chuẩn bị..."

Denis Hayes, một cựu sinh viên Havard, sau khi đọc bài báo của New York Times đã đến Washington để tham gia. An trở thành chủ tịch của khối sinh viên và nhà hoạt động ở Đại học Standford thuộc quận McCloskey’s nơi Paul Ehrlich, thành viên ban điều hành hội thảo, là giảng viên. Nelson mời Hayes rời Havard, thiết lập một tổ chức và hướng đến toàn nước Mỹ.Hayes sau đó trở thành một nhà hoạt động môi trường được nhiều người biết đến.

Hayes tuyển một số cử nhân trẻ để đến Washington, D.C. và bắt đầu chuẩn bị cho Ngày Trái Đất đầu tiên.
Đề nghị của Nelson khó thực hiện, vì cuộc vật động Ngày Trái Đất tỏ ra tự phát mà không có trung tâm điều hành. Thượng nghị sĩ chứng thực, cuộc vận động đơn giản tự nó phát triển:

Earth Day thành công nhờ phản ứng tự nguyện của tầng lớp thường dân. Chúng tôi không có thời gian hay nguồn lực để tổ chức 20 triệu người biểu tình và hàng nghìn trường học và các cộng đồng địa phương tham gia. Đó là điều đáng chú ý về Ngày Trái Đất. Nó tự tổ chức.




Ngày 22 tháng 4 năm 1970, Ngày Trái Đất đánh dấu sự khởi đầu của cuộc vận động vì môi trường hiện đại. Xấp xỉ 20 triệu người Mỹ tham gia. Hàng ngàn trường đại học và cao đẳng tổ chức biểu tình chống lại sự xuống cấp của môi trường. Các nhóm người chống tràn dầu, các công xưởng và nhà máy điện ô nhiễm, nước thải không qua xử lý, chất độc hoá học, thuốc trừ sâu, sự suy giảm vùng hoang dã và ô nhiễm không khí bỗng chốc nhận ra họ có chung mục đích.

Ngày Trái Đất xuất hiện trên các phương tiện truyền thông đại chúng qua bài báo cáo đặc biệt dài một tiếng vào giờ vàng của CBS mang tên "Ngày Trái Đất: Vấn đề của sự tồn tại" với các bài trả lời của nhiều thành phố lớn dọc đất nước và bài tường thuật của Walter Cronkite (trên nền logo của Uỷ ban Tuần Trái Đất Philadelphia).

Pete Seeger là người dẫn chương trình và diễn thuyết chính trong sự kiện tổ chức ở Washington DC. Paul Newman và Ali McGraw đã tham dự sự kiện tổ chức ở New York City.

Kết quả của Ngày Trái Đất 1970

Ngày Trái Đất đã chứng tỏ sự rộng rãi ở Hoa Kỳ và trên toàn thế giới. Ngày Trái Đất đầu tiên có sự tham dự và ủng hộ của hai nghìn trường đại học và cao đăng, gần 10 nghìn trường tiểu học và cấp hai và hàng trăm cộng động dọc nước Mỹ. Quan trọng hơn, nó "đưa 20 nghìn người Mỹ ra khỏi nhà trong ánh nắng của mùa xuân cho một cuộc tuần hành hoà bình ủng hộ môi trường."

Thượng nghị sĩ Nelson tuyên bố rằng Ngày Trái Đất thành công nhờ phản ứng của tầng lớp bình dân. Ông gắn Ngày Trái Đất với việc thuyết phục các chính trị gia Hoa Kỳ rằng luật môi trường nhận được sử ủng hộ quan trọng và lâu dài của cử tri.

Tên gọi Ngày Trái Đất

Theo thượng nghị sĩ Nelson, tên gọi "Ngày Trái Đất" là "một tên gọi hiển nhiên và hợp lý" được đề xuất bới "một số người" vào mùa thu 1969, bao gồm, ông viết, cả "một người bạn của tôi làm việc trong lĩnh vực quan hệ công chúng" và "một advertising executive ở New York", Julian Koenig. Koenig, một thành viên trong uỷ ban tổ chức của Nelson năm 1969, nói rằng ý tưởng này đến với ông do ngày sinh nhật ông trùng với ngày được chọn, 22 tháng 4; "Earth Day" vần với "birthday" (ngày sinh), một mối liên hệ tự nhiên. Một số tên gọi khác được sử dụng trong quá trình chuẩn bị - chính Nelson vẫn tiếp tục gọi nó là Hội thảo Quốc gia về Môi trường tuy nhiên báo chí đã thống nhất cách gọi "Ngày Trái Đất".

Xem thêm clip Earth Day 2013 (ngày trái đất) là ngày gì?





CayBonLa.com (bktt)

Tags: Ngay Trai Dat, Earth Day 2013 la ngay gi